GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN CÁC NGÀNH SƯ PHẠM CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA
Đăng lúc: 06/05/2024 (GMT+7)
Chương trình đào tạo ngành sư phạm ở các trường đại học có những yêu cầu riêng, trong đó quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là hoạt động chuyên biệt và mang tính đặc thù, việc quan tâm đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ cho sinh viên các ngành sư phạm là rất quan trọng
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ
SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN CÁC NGÀNH SƯ PHẠM CỦA TRƯỜNG
ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA
- TS. Nguyễn Thị Thái -
Khoa Giáo dục Mầm non
Tóm tắt: Chương trình đào tạo ngành sư phạm ở các trường đại học có những yêu cầu riêng, trong đó quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là hoạt động chuyên biệt và mang tính đặc thù, việc quan tâm đầu tư thích đáng để nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ cho sinh viên các ngành sư phạm là rất quan trọng để đào tạo ra những sinh viên giỏi về kiến thức lý luận và thực tiễn. Bài viết đặt ra vấn đềmang tính cấp thiết đó là nghiên cứu “Giải pháp nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên sư phạm trong trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm đáp ứng yêu cầu đào tạo và yêu cầu tuyển dụng của xã hội.
Từ khóa: Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, thực trạng, giải pháp
1. Giáo dục đại học đóng vai trò là hệ thống nuôi dưỡng của mọi lĩnh vực trong đời sống, là nguồn cung cấp nhân lực chất lượng cao để phục vụ các công tác quản lý, chuyên môn… Đây là cấp học ở mức cao hơn với mức độ kiến thức chuyên sâu theo ngành, nghề mà học sinh lựa chọn chứ không đào tạo một cách rộng theo nhiều chuyên môn và đào tạo bậc đại học chỉ dành cho những người đang có nhu cầu và có đủ những khả năng về kiến thức và xã hội tham gia học tập.
Lý luận và thực tiễn giáo dục cho thấy, chất lượng giáo dục phụ thuộc nhiều yếu tố, nhưng yếu tố người giáo viên là trung tâm, đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong đó việc hình thành năng lực sư phạm là yếu tố then chốt quyết định hiệu quả giáo dục và đào tạo. Năng lực sư phạm của người giáo viên được hình thành bằng nhiều yếu tố, theo những con đường khác nhau, phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân, điều kiện, hoàn cảnh học tập, lao động của mỗi người. Nhưng quá trình hình thành năng lực sư phạm trong quá trình học tập có thể xem là sự khởi đầu mang tính nền tảng để họ thực hiện có hiệu quả các hoạt động trong thực tiễn giáo dục và dạy học sau khi tốt nghiệp.
Trong xu thế hội nhập toàn cầu cùng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, giáo dục và đào tạo ngày càng đóng vai trò quan trọng, trở thành kim chỉ nam cho sự phát triển bền vững của mọi quốc gia, dân tộc. Cùng với sự bùng nổ của khoa học – công nghệ, nguồn nhân lực trở thành yếu tố quyết định nhất tới sự phát triển bền vững của nền kinh tế tri thức. Mọi quốc gia muốn phát triển nhanh chóng, vững mạnh cần dựa vào nguồn nhân lực dồi dào, có chuyên môn cao đã qua đào tạo.Để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, vai trò của giáo dục là không thể thay thế. Giáo dục và đào tạo góp phần cung cấp nguồn nhân lực có trình độ, đáp ứng đủ số lượng và chất lượng phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt là giáo dục đại học.
2. Chương trình đào tạo ngành sư phạm ở các trường đại học có những yêu cầu riêng, trong đó quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là hoạt động chuyên biệt và mang tính đặc thù. Vì vậy, việc quan tâm đầu tư thích đáng cho hoạt động này là rất quan trọng để đào tạo ra những sinh viên sư phạm giỏi về kiến thức lý luận và thực tiễn. Những kết quả về đào tạo giáo viên của các ngành đào tạo sư phạm trong trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa đã được khẳng định qua các khóa tốt nghiệp ở các ngành Giáo dục Mầm non, Sư phạm Nghệ thuật, Sư phạm Âm nhạc và năm học 2022 - 2023 chuẩn bị đón nhận những sinh viên ngành Giáo dục Thể chất. Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi đặt ra và cần quá trình kiểm nghiệm qua lý luận và thực tiễn đào tạo ngành sư phạm: trong quá trình đào tạo, dù đã cố gắng thay đổi hình thức, nội dung, phương pháp giáo dục, trang bị phương tiện dạy học... nhưng việc rèn luyện NVSP của sinh viên sư phạm vẫn còn bất cập, thiếu tính hệ thống; biện pháp rèn luyện và bài tập thực hành chưa được xây dựng và sử dụng trên một cơ sở lý luận rõ ràng, năng lực thích ứng nghề nghiệp của nhiều sinh viên sư phạm chưa cao, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đổi mới nhất định đến lĩnh vực này...! Bài viết đặt ra vấn đềmang tính cấp thiết đó là nghiên cứu “Giải pháp nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên sư phạm trong trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả giảng dạy thực hành nghiệp vụ sư phạmđáp ứng yêu cầu đào tạo và yêu cầu tuyển dụng của xã hội.
3. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là quá trình hình thành và phát triển năng lực sư phạm cần có của sinh viên. Trong quá trình đào tạo sinh viên sư phạm, đây là quá trình rèn luyện thường xuyên, liên tục, có hướng dẫn, có tổ chức khoa học, bài bản, theo một chuẩn sư phạm nhất định. Qua đó, người học được từng bước làm quen những kĩ năng, thái độ, đáp ứng yêu cầu chuẩn nghề nghiệp của một giáo viên tương lai. Để quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thực sự mang lại hiệu quả, các cơ sở đào tạo có ngành sư phạm phải có kế hoạch, chương trình có sự hợp tác chặt chẽ với trường thực hành. Nội dung rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho người học phải đáp ứng được yêu cầu đối với giáo dục các cấp.
3.1. Thực trạng chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên các ngành sư phạm trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
Khi nói đến chất lượng giáo viên ngành sư phạm không thì không chỉ là sự quan tâm của các trường đại học, mà đó còn là sự quan tâm của cả quốc gia và thế giới về lĩnh vực này. Giáo dục của các quốc gia trên thế giới và trong nước qua thực tiễn đã có những tiêu chuẩn, yêu cầu nghiêm túc về chất lượng của giáo viên khi tốt nghiệp đại học trong đó chú trọng và yêu cầu cao về kỹ năng nghiệp vụ sư phạm của giáo viên.
Tại Viện Nghiên cứu Sư phạm – Đại học Sư phạm Hà Nội, tác giả Trương Thị Bích cho rằng: “Điểm khác biệt giữa trường Đại học sư phạm với các trường đại học khác là hoạt động đào tạo nghiệp vụ sư phạm. Thông qua hoạt động này, tay nghề dạy học của sinh viên được hình thành và được rèn luyện thường xuyên. Đây là điều kiện “cần” để sinh viên bớt đi sự bỡ ngỡ khi xuống các trường phổ thông thực tập sư phạm. Hoạt động này cũng trang bị cho sinh viên các kĩ năng dạy học, kĩ năng giáo dục cần thiết, góp phần rút ngắn khoảng cách “tập sự” của giáo viên trẻ mới ra trường, giúp họ nhanh chóng làm quen, hòa nhập và có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học – giáo dục, đáp ứng Chuẩn nghề nghiệp giáo viên khi giảng dạy”.
Từ quan điểm và thực tiễn đặt ra với yêu cầu cao về sinh viên ngành sư phạm như vậy trong việc phát triển năng lực rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, nhà trường luôn đặt ra vấn đề nghiên cứu thực tế rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên sư phạm và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, chất lượng đào tạo cho sinh viên sư phạm trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, tuy nhiên với yêu cầu ngày càng cao của nhu cầu xã hội về chất lượng sinh viên sư phạm khi ra trường, thì thực tế chất lượng sinh viên các ngành sư phạm đã tốt nghiệp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và kỳ vọng của nhà trường.
Trong lĩnh vực đào tạo cử nhân ngành Giáo dục mầm non, chương trình đào tạo đặt ra mục tiêu người học phải có kiến thức nền tảng về khoa học xã hội nhân văn và khoa học giáo dục; có khả năng hình thành ý tưởng, thiết kế, triển khai, đánh giá và phát triển chương trình GDMN; có năng lực tự chủ và trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển GD trong bối cảnh hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, sinh viên khoa đã được trang bị đầy đủ, cơ bản phục vụ cho quá trình học tập như: Khoa có 2 phòng làm việc của CBGV. Bên cạnh CSVC dùng chung (Thư viện, nhà luyện tập thể thao, Nhà biểu diễn, Phòng thực hành Tin học - Ngoại ngữ...), khoa có hệ thống phòng học lý thuyết, 08 phòng Thực hành chức năng (01 phòng THMN; 01 phòng đàn; 03 phòng Thanh nhạc; 01 phòng Múa và GDTC; 02 phòng thực hành Mỹ thuật) ... với trang thiết bị phù hợp, hiện đại, hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động đào tạo, NCKH và luyện tập, vui chơi, giải trí. Về chương trình đào tạo được xây dựng đúng quy trình, quy định hiện hành của Bộ GD&ĐT; xác định cụ thể, rõ ràng, phù hợp sứ mạng và tầm nhìn của Trường, phù hợp mục tiêu GDĐH và phản ánh được nhu cầu của thị trường lao động. Thể hiện rõ yêu cầu về trình độ kiến thức, kỹ năng, năng lực và mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm với NH khi tốt nghiệp; cập nhật, tính tích hợp và gắn với thực tế; Sau khi hoàn thành chương trình, SV có thể đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực ngành GDMN.Được định kỳ rà soát, điều chỉnh, cập nhật theo xu hướng hiện đại; có tham khảo CTĐT các trường ĐH uy tín; có sự tham gia góp ý các BLQ; được công bố công khai, tạo điều kiện cho các BLQ dễ dàng tiếp cận. Về phương pháp tiếp cận trong dạy học, các hoạt động DH được thiết kế đa dạng, phù hợp CĐR; hệ thống phương pháp và HTTCDH hướng đến mục tiêu lấy người học làm trung tâm, phát huy tính tích cực, sáng tạo của NH. Về kết quả đầu ra của sinh viên ngành GDMN: Đa số SV tốt nghiệp ngành GDMN đều có việc làm phù hợp sau khi ra trường, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực GDMN cho tỉnh Thanh Hóa, khu vực Nam Sông Hồng - Bắc Trung Bộ và cả nước. Tuy nhiên, có thể thấy, mặc dù đã có những thay đổi, cải tiến theo chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, nhưng chất lượng người học, đặc biệt là chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm chưa đạt như mong muốn của cơ sở đào tạo và cơ sở tuyển dụng. Sinh viên còn thụ động, chưa tích cực trong các hoạt động kiến tập, thực tập ở trường mầm non.
Ngành Sư phạm mỹ thuật với mục tiêu và nhiệm vụ là đào tạo và bồi dưỡng các ngành, bậc học thuộc lĩnh vực mỹ thuật: Đại học, Trung cấp, sơ cấp. Ngoài ra ngành còn có nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, ứng dụng và tư vấn cho các cấp, ban ngành trong tỉnh về lĩnh vực mỹ thuật; thực hiện nhiệm vụ, phát triển chương trình giáo dục lĩnh vực mỹ thuật theo mục tiêu của Nhà trường. Mục tiêu của chương trình đào tạo là đào tạo cử nhân sư phạm mỹ thuật. có kiến thức nền tảng về khoa học xã hội nhân văn và khoa học gáo dục; có khả năng hình thành ý tưởng, thiết kế, triển khai, đánh giá và phát triển chương trình giáo dục; có năng lực tự chủ và trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục trong bối cảnh hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Về cơ sở vật chất, nhà trường đã trang bị cho ngành phòng làm việc chung, các xưởng thực hành đồ hoạ, thời trang, phòng thưcj hành chuyên ngành, phòng trưng bày sản phẩm mỹ thuật, kho chứa sản phẩm, thiết bị dạy học và dụng cụ thực hành, các phòng học lý thuyết. Về đội ngũ giảng viên cơ bản đáp ứng được yêu cầu của chuẩn đội ngũ. Về phương pháp dạy và học đáp ứng yêu cầu phương pháp cơ bản và hiện đại của giáo dục đại học hiện nay. Nhưng mặc dù đã có sự đầu tư, trang bị về về chất và lượng cho ngành học, nhưng yêu cầu cơ bản về chất lượng sinh viên, đặc biệt là yêu cầu nghiệp vụ sư phạm vẫn còn yếu và cần chú trọng về nhiều phương diện khi sinh viên kiến tập, thực tập và ra trường.
Ngành Sư phạm Âm nhạc được sát nhập về khoa Âm nhạc, đây là ngành học trước đây thuộc bộ môn Sư phạm Âm nhạc trực thuộc khoa Sư phạm Nghệ thuật. Khi sát nhập bộ môn SPAN về khoa Âm nhạc vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ của bộ môn là phụ trách ngành SPAN. Mục tiêu chương trình đào tạo của ngành Sư phạm Âm nhạc là đào tạo cử nhân SPAN có kiến thức nền tảng về khoa học xã hội nhân văn và khoa học giáo dục; Có khả năng hình thành ý tưởng , thiết kế, triển khai, đánh giá và phát triển chương trình giáo dục; Có năng lực tự chủ và trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục trong bối cảnh hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Cơ sở vật chất đáp ứng đầy đủ yêu cầu của người học. Phương pháp tiếp cận trong dạy học bám sát chuẩn đầu ra của ngành học. Các hoạt động dạy và học tạo điều kiện cho sinh viên rèn luyện các kỹ năng, nâng cao khả năng học tập suốt đời của người học. Quy trình dạy học được đánh giá kiểm tra thường xuyên thông qua các hình thức kiểm tra đánh giá đa dạng, linh hoạt, đảm bảo sự tương thích và phù hợp chuẩn đầu ra. Chương trình đào tạo được xây dựng đúng quy trình, quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo; xác định rõ ràng, cụ thể, phù hợp sứ mạng và tầm nhìn của nhà trường, phù hợp với mục tiêu giáo dục đại học và đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động; Thể hiện rõ các yêu cầu về trình độ kiến thức, kỹ năng, năng lực và mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với người học khi tốt nghiệp, cập nhật các nội dung mới, đảm bảo tính tích hợp và gắn với thực tế. Trong chương trình đào tạo đã chú trọng đến việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên như qua giảng dạy, thực tập, thực tế, tuy nhiên chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm còn chưa như kỳ vọng của ngành và nhà trường.
Ngành Giáo dục thể chất bắt đầu khóa tuyển sinh và đào tạo từ năm 2021, tuy chưa có kiểm nghiệm thực tiễn quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ở sinh viên, nhưng trong chương trình đào tạo của ngành đã rất chú trọng đến công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho người học. Với đặc thù là ngành học giáo dục giảng dạy về thể chất, vận động và ảnh hưởng từ vận động tới sự phát triển về thể chất của con người. Thông qua quá trình vận động sẽ dần xây dựng thể chất của con người theo hướng tích cực.Chương trình đào tạo ngành giáo dục thể chất áp dụng các phương pháp dạy học tiên tiến, hướng tới phát triển kỹ năng, năng lực của người học, qua đó cung cấp cho người học những kiến thức và kỹ năng cần thiết trong việc giảng dạy, nghiên cứu, tổ chức các buổi hoạt động thể chất, thể dục thể thao tại các trường học, trung tâm thể thao sao cho phù hợp.
Trong chương trình đào đạo các ngành sư phạm, quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm mang tính chất thường xuyên nên đã trở thành điều kiện quan trọng và thuận lợi để rèn luyện kĩ năng sư phạm cho sinh viên ngành sư phạm, là cầu nối giữa lí luận với thực tiễn trong đào tạo sư phạm. Nghiệp vụ này diễn ra trong suốt chương trình học của sinh viên sư phạm và hiện diện trong hầu hết các môn học trong chương trình đào tạo các ngành sư phạm của trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa.
Thực hiện yêu cầu rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, sinh viên có điều kiện bộc lộ năng lực thực tiễn của mình và được thực tiễn kiểm nghiệm, đánh giá. Hơn nữa, do kết quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm được đánh giá qua thực tiễn và năng lực thực tiễn của cá nhân nên hoạt động này có một ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành phẩm chất và năng lực nghề nghiệp cho sinh viên và là thước đo chất lượng đào tạo giáo viên sư phạm có trình độ đại học, góp phần thực hiện nhiệm vụ đào tạo đội ngũ giáo viên sư phạm có chất lượng cao, đáp ứng những yêu cầu của đổi mới chất lượng đào tạo sinh viên sư phạm.
Để quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên có hiệu quả, trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa luôn quan tâm và đề ra những con đường hình thành năng lực sư phạm cũng như nghiên cứu để cụ thể hóa những nội dung rèn luyện rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và xây dựng quy trình rèn luyện rèn luyện nghiệp vụ sư phạm sao cho hoạt động rèn luyện rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của trường nằm trong khuôn khổ quy định của trường đại học nhưng vẫn giữ được nét riêng của các ngành học đặc thù.
3.2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV
3.2.1. Chú trọng đến công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm trong chương trình đào tạo và thay đổi phương pháp tiếp cận trong hoạt động dạy và học
Trong chương trình đào tạo, nhà trường định hướng chung công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, còn khoa đào tạo trực tiếp vận hành, quản lý, điều hành việc thực hiện chương trình đào tạo trong đó có các học phần thực hành, kiến tập, thực tập sư phạm và các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm khác của sinh viên chuyên ngành. Việc chỉ đạo công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường được tổ chức theo hệ thống các quy định nằm trong khung chương trình, trong nội dung chi tiết của các học phần.
Thực tế cho thấy, ngoàiviệc đảm bảo các yêu cầu chung do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, các cơ sở đào tạo phải tăng cường tính tự chủ trong soạn thảo, bố trí, sắp xếp chương trình đào tạo, nhất là đối với các học phần rèn nghề của sinh viên để tạo tính mở, cho phép người thực hiện chương trình linh hoạt, lựa chọn thời gian, nội dung thực hành phù hợp với thực tiễn.
Cần thay đổi quan điểm chỉ đạo công tác kiểm tra, đánh giá. Ngoài việcsử dụng kết quả kiểm tra, đánh giá của trường đối với sinh viên, cơ sở đào tạo cũng nên kết hợp xây dựng thêm kênh đánh giá của mình. Cụ thể: xây dựng thêm phần thời gian thực hành tại cơ sở đào tạo (thực hành nghiệp vụ sư phạm tại trường, thực tập tại trường) với mục đích vừa hướng dẫn chuyên sâu cho sinh viên trước khi ra trường vừa đánh giá về ý thức, về hoạt động rèn nghề của sinh viên. Kênh đánh giá này thường đảm bảo tính xác thực hơn do có quá trình đào tạo lâu dài đối với sinh viên. Đồng thời, nhà quản lý cũng cần thay đổi cách đánh giá kết quả của việc rèn nghề thông qua các môn giáo học pháp và các hoạt động tại cơ sở đào tạo. Cần đánh giá cả kết quả thực hiện về phương pháp hướng dẫn của giảng viên chứ không chỉ đánh giá kết quả tiếp nhận phương pháp của sinh viên. Và nên đánh giá bằng định lượng thay vì định tính (hướng dẫn có hiệu quả, hướng dẫn tốt…).
Cùng với thực tế đào tạo, khoa, bộ môn cần có tư duy mở, thừa nhận và tạo cơ hội cho nhữngthay đổi, những đột phá của giảng viên trong quá trình rèn nghề cho sinh viên, kể cả việc điều chỉnh nội dung chương trình nhằm tăng cường năng lực, tay nghề cho sinh viên, phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được nhu cầu của đơn vị tuyển dụng.
Người học chưa thực sự thích nghi với phương pháp giáo dục tích cực như tự học, tự nghiên cứu, nhất là người học năm thứ nhất, một số hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên chưa phát huy được tính tự giác và tích cực của người học trong quá trình tương tác với giảng viên và cơ sở thực hành, thực tập.
Ngoài ra với sinh viên sư phạm, khoa và bộ môn nên có nhưng thay đổi trong phương pháp dạy học để giúp người học thích ứng nhanh chóng trong quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và thực tế nghề nghiệp như: tăng cường áp dụng phương pháp dạy học chú trọng đến năng lực, làm việc nhóm, giải quyết tình huống của người học nhằm hoàn thiện hệ thống kỹ năng sẵn sàng tham gia vào thực tế, thực tập và thị trường lao động. Bố trí phòng học phù hợp với phương pháp và hình thức dạy học lý thuyết hoặc thực hành, vì đặc thù của hai hình thức, phương pháp dạy học này là khác nhau
3.2.2. Tăng cường “kết nối” trong đánh giá kết quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên giữa cơ sở đào tạo và cơ sở thực tập
Trong xu thế kết nối thông tin và lưu trữ dữ liệu mạnh mẽ như hiện nay, việc kết nối trong đánh giá kết quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên là hết sức cần thiết đối với các cơ sở đào tạo giáo viên. Trước đây, phương thức truyền thống trong việc theo dõi kết quả nghiệp vụ sư phạm của sinh viên là khoa đào tạo lập kết quả, chuyển phòng đào tạo và phòng khảo thí và bảo đảm chất lượng giáo dục lưu giữ. Khoa đào tạo không còn nắm bắt được một cách hệ thống kết quả rèn luyện nghiệp vụ của sinh viên đã và đang được đào tạo ở khoa nữa. Muốn tìm lại kết quả phục vụ cho một mục đích nào đó cần truy cập tại hai phòng này. Thực tế này gây ảnh hưởng đến mục tiêu so sánh, đối chiếu, đánh giá năng lực nghiệp vụ của sinh viên trong một quá trình, một năm học, một khoá học, nhiều khoá học, từ đó ảnh hưởng đến tầm nhìn hoạch định chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo của đơn vị. Vì vậy, bộ môn và khoa cần đổi mới tư duy, xây dựng một mạng lưới kết nối thông tin kết quả nghiệp vụ sư phạm của sinh viên. Mạng lưới này phải đảm bảo tính hệ thống “dọc” và “ngang”. Dọc là hệ thống theo dõi qua các năm học, khoá học; ngang là hệ thống các thông tin đủ làm căn cứ để điều chỉnh khả năng thực hành nghiệp vụ của sinh viên. Hệ thống này của khoa đào tạo phải liên thông với hệ thống theo dõi thực hành, kiến tập, thực tập sư phạm chung của toàn trường (qua phòng đào tạo, phòng khảo thí và bảo đảm chất lượng giáo dục) để tạo cái nhìn toàn diện về chất lượng nghiệp vụ sư phạm của sinh viên. Đồng thời, phòng đào tạo và khoa đào tạo cũng cần kết nối thêm với trường nơi sinh viên đến thực hành nghiệp vụ để hoàn thiện mạng lưới này,
phục vụ cho công tác điều chỉnh quy trình, hình thức, chất lượng của sinh viên khi tham gia rèn nghề tại trường.
Đồng thời với việc kết nối mạng lưới kết nối kết quả rèn nghề, khoa đào tạo nên tạo lập mạng lưới liên hệ về chuyên môn giữa khoa đào tạo và các bộ phận phụ trách chuyên môn giáo dục của địa phương (phòng giáo dục thuộc Sở Giáo dục) và các cơ sở thực tập, đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và cơ sở thực tập, tạo tính đồng bộ trong quy trình rèn nghề cho sinh viên. Khuyến khích các báo cáo chuyên đề giảng viên với nội dung hướng dẫn rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên cho sinh viên trước khi các em đi thực hành, kiến tập, thực tập sư phạm.
Bên cạnh đó, mạng lưới chuyên môn này có thể kết nối rộng với mạng lưới giáo dục kỹ năng của các bộ phận, trung tâm, câu lạc bộ giáo dục kỹ năng trong và ngoài cơ sở đào tạo nhằm đẩy mạnh công tác tư vấn, giáo dục kỹ năng nói chung, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp nói riêng cho sinh viên.
3.2.3. Tăng cường cho sinh viên sư phạm được tham gia, quan sát các hoạt động thực tế giảng dạy ở cơ sở thực tập ngay từ đầu khóa đào tạo
Năm thứ nhất của chương trình đào tạo sinh viên chuyên ngành khối sư phạm, để tạo điều kiện cho các em làm quen, tiếp xúc với môi trường sư phạm, khoa, bộ môn cần bố trí cho sinh viên có từ 1 đến 2 tuần tiếp xúc vớitrường thực hành, thực tập. Mục đích là để sinh viên làm quen với với trường thực hành, thực tập với tư cách người giáo viên. Điều đó không chỉ giúp người học làm quen với môi trường thực hành, thực tập tương lai mà còn giúp các em trong quá trình học các môn cơ sở ngành và chuyên ngành có hiệu quả tốt hơn. Có thể không cần phải tổ chức quy mô như các đợt kiến tập, thực tập mà nhà trường cần định hướng cho các khoa, từ các khoa triển khai cho các lớp cụ thể về việc đăng ký kết nghĩa với các trường thực hànhgần trường học; làm việc với Ban Giám hiệu các trường thực hànhcho sinh viên về trường tham gia làm công tác chủ nhiệm, tham gia dự giờ, sinh hoạt với nhóm, tổ chuyên môn ; tất nhiên là chưa cho sinh viên tham gia dạy thử trên đối tượng học sinh; không đặt ra vấn đề có giáo viên hướng dẫn. Các hoạt động này không cần phải nhận xét, đánh giá, cho điểm, chỉ cần sinh viên báo cáo diễn biến và kết quả công việc hoặc đưa ra các tình huống giáo dục mà mình gặp để nhóm, tổ sinh viên cùng tham gia xử lý, rút kinh nghiệm. Tất cả các hoạt động này để các nhóm sinh viên chủ động sắp xếp thời gian, làm sao để không ảnh hưởng đến việc học các môn học khác. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được vì sinh viên thông thường chỉ phải lên lớp một buổi trong ngày. Các đợt đi xuống các trường như thế có thể không cần quy định ngày kết thúc. Ngày kết thúc căn cứ vào kế hoạch đăng ký với khoa, bộ môn của nhóm sinh viên, phụ thuộc vào thỏa thuận giữa giảng viên cố vấn và sinh viên, giáo viên phụ trách ở cơ sở thực hành, thực tập nắm tình hình thông qua nhóm trưởng sinh viên.
Tại lớp, nên phân sinh viên thành các nhóm nhỏ hoặc vẫn duy trì các nhóm tham gia sinh hoạt ở trường. Giảng viên tùy vào nội dung môn mình phụ trách để đưa ra các vấn đề, các tình huống hoặc tổ chức cho sinh viên nghĩ ra các vấn đề, các tình huống khác để suy nghĩ tìm ra các phương án giải quyết. Các vấn đề, các tình huống có thể là việc khai thác lý thuyết như thế nào cho hợp lý. Là cách trình bày vấn đề thế nào cho khoa học. Diễn đạt trước một tập thể làm sao cho khỏi lúng túng, nói năng thế nào cho lưu loát, xử lý một em học sinh có thái độ vô lễ thì phải như thế nào ? v.v… Sang đến năm thứ ba, thứ tư có thể tổ chức cho sinh viên tập giảng, chọn sinh viên ưu tú để giảng mẫu, giảng viên giảng mẫu, nhóm, tổ góp ý xây dựng, rút kinh nghiệm.
Chuẩn bị kỹ cho sinh viên ngay từ năm thứ nhất như thế chắc chắn đến các đợt kiến tập, thực tập ở những năm sau, sinh viên sẽ bớt lúng túng, bỡ ngỡ; thậm chí còn phát huy tính chủ động, sáng tạo trong công tác giảng dạy cũng như công tác chủ nhiệm và các hoạt động giáo dục khác tại trường thực tập.
3.2.4. Đầu tư cơ sở vật chất và các dịch vụ hỗ trợ cho sinh viên
Đảm bảo cơ sở vật chất ở các cơ sở thực hành, thực tập có sinh viên xuống kiến tập, thực tập. Ngoài racần phải có kinh phí hỗ trợ từ các nguồn khác nhau để có thể xây dựng, mua sắm trang thiết bị cần thiết phục vụ công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Cơ sở đào tạo sinh viên sư phạm cần phải đầu tư xây dựng những phòng học chất lượng cao (đa năng) để sinh viên có thể thực hành tốt, đảm bảo giảng dạy tốt nhưng không làm xáo trộn đến lớp học (đồ dùng dạy học, phương tiện kĩ thuật hiện đại, phòng kính cách li để sinh viên có thể quan sát, học tập,...); xây dựng những không gian cần thiết để tổ chức hoạt động ngoài giờ.
Các trang website, mạng Internet của Trường, của Khoa cần nâng cấp tốc độ truy cập để không ảnh hưởng đến quá trình tìm hiểu, truy cập thông tin cần thiết cho người học.
Thông tin hoạt độngc của Khoa, Trường đến người học phải được thường xuyên cập nhật. Đây cũng là một thuận lợi cho sinh viên để tìm kiếm thông tin, kiến thức phù hợp cần thiết cho quá trình học.
Số lượng người học phân bổ cho mỗi cố vấn học tập cần phù hợp để hoạt động cố vấn thực sự hữu ích và cần thiết cho người học, sâu sát đến từng hoạt động học tập nhằm hỗ trợ việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho người học, giúp người học không còn gặp những khó khăn, hạn chế trong tự rèn luyện.
Thư viện nhà trường cần bổ sung thêm những tài liệu tham khảo hữu ích, các phòng đọc, phòng tự học phục vụ cho học chuyên ngành và đặc biệt giúp cho quá trình tự rèn luyện nghiệp vụ sư phạm được thuận lợi cả lý thuyết và thực tiễn. Có như vậy mới có thể đáp ứng hết nhu cầu đào tạo và học tập của giảng viên và sinh viên.
Thành công của việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng và kết quả cuối cùng của công tác rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Năng lực sư phạm của mỗi sinh viên có được là do kết quả rèn luyện nghiệp vụ sư phạm mà nên. Bởi vậy, đổi mới quan điểm chỉ đạo, đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là một trong những yêu cầu quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong mục tiêu đào tạo nghề nghiệp cho sinh viên, đáp ứng được yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho các cơ sở giáo dục.
Vấn đề nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các ngành đại học sư phạm là một vấn đề lớn, đòi hỏi sự nỗ lực tổng hợp của các nhà quản lý, các nhà khoa học, các giảng viên trực tiếp đứng lớp, đặc biệt đòi hỏi sự nỗ lực tự thân của sinh viên. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tập trung đề cập đến vấn đề góp phần nâng cao chất lượng rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên ngành sư phạm. Thiết nghĩ, nếu các biện pháp này được triển khai và thực hiện tốt, chắc chắn sẽ góp phần không nhỏ trong việc thực hiện thành công nhiệm vụ lớn: đào tạo sinh viên sư phạm trở thành những giáo viên có trình độ chuyên môn vững vàng, có vốn tri thức sư phạm, kỹ năng sư phạm phong phú, có tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong giảng dạy cũng như trong việc xử lý các tình huống giáo dục nói chung.
4.Như vậy, có thể thấy, vấn đề nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các ngành sư phạm là vấn đề cấp bách được chú ý, coi trọng ở các ngành đào tạo sư phạm của các trường đại học nói chung và trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa nói riêng.
Rõ ràng, việc đào tạo sinh viên sư phạm vững vàng về chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm sẽ là nền tảng tạo thành các giáo viên giỏi đáp ứng được mục tiêu đào tạo của ngành học và nhu cầu tuyển dụng của xã hội. Những sinh viên sư phạm được đào tạo với “chất lượng” như vậy sẽ là một nguồn lực mạnh, góp phần không nhỏ vào nâng cao chất lượng đào tạo sinh viên ngành sư phạm của giáo dục nước ta./
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Thanh Bình (2006), Giáo dục Việt Nam trong thời kì đổi mới, Nxb Giáo dục.
[2]. Nguyễn Hữu Dũng (2004), Hình thành kĩ năng sư phạm cho sinh viên sư phạm, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội
[3]. Nguyễn Hà Thanh (tuyển chọn) (2009), Cẩm nang công tác giáo dục mầm non, Nxb Lao động.
[4]. Vũ Hoa Tươi (tuyển chọn) (2013), Đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả và những giải pháp ứng xử trong ngành giáo dục hiện nay, Nxb Tài chính, 2013.
Các tin khác
- GIẢNG VIÊN KHOA GIÁO DỤC MẦM NON VÀ TIỂU HỌC THAM GIA HỘI GIẢNG CẤP TRƯỜNG.
- GIỜ HỌC THỰC HÀNH MÔN PHƯƠNG PHÁP CHO TRẺ KHÁM PHÁ MÔI TRƯỜNG XUNG QUANH
- GIỜ HỌC THỰC HÀNH MỸ THUẬT ỨNG DỤNG
- TẦM QUAN TRỌNG CỦA DINH DƯỠNG VÀ CÁC BƯỚC XÂY DỰNG KHẨU PHẦN ĂN ĐẢM BẢO ĐÚNG TIÊU CHUẨN CHO TRẺ MẦM NON
- TỪ NGỮ THÔNG TỤC VÀ VAI TRÒ NGHỆ THUẬT TRONG LỜI THOẠI NHÂN VẬT Ở TIỂU THUYẾT CỦA NHÀ VĂN CHU LAI
- CÁC YÊU CẦU VỀ KỸ NĂNG NGHỀ NGHIỆP CỦA GIÁO VIÊN MẦM NON TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
- GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CHO SINH VIÊN CÁC NGÀNH SƯ PHẠM CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH THANH HÓA
- HỘI THẢO XÂY DỰNG MÔ HÌNH TƯ VẤN TÂM LÝ HỌC ĐƯỜNG CHO CÁC TRƯỜNG THCS TRÊN ĐỊA BẢN TỈNH THANH HÓA
- THÔNG BÁO, THƯ MỜI VIẾT BÀI HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG, ĐỀ TÀI KHOA HỌC&CÔNG NGHỆ CẤP TỈNH
- Việt Nam là điển hình về kết quả học tập cao khi đầu tư cho giáo dục khiêm tốn